Cuộc chiến diễn ra trong thời gian ngắn (17/2 – 18/3/1979), tuy nhiên quy mô lại cực lớn, tiến công đồng loạt, ồ ạt với nhiều trọng điểm, chiều sâu trung bình từ 10 đến 20 km, có nơi vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 40 – 50 km như thị xã Cao Bằng, Tài Hồ Xìn, phố Lu... Rõ ràng đây là một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, có tính toán chứ không còn là những cuộc xung đột vũ trang xâm lấn biên giới như một số người lầm tưởng.
Ngay từ những năm đầu Việt Nam thống nhất đất nước, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lấn đất đai (từ 234 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, tăng lên 873 vụ năm 1977 và 2175 vụ năm 1978), gây tình hình căng thẳng, phức tạp trên vùng biên giới Việt – Trung.
Từ tháng 5/1978, Trung Quốc vô cớ dựng lên “sự kiện nạn kiều”, thực chất là dụ dỗ, đe dọa, lần lượt cưỡng ép gần 20 vạn Hoa kiều đang sống yên ổn ở Việt Nam phải về nước. Tiếp đó, họ trắng trợn vu cáo Việt Nam ngược đãi, khủng bố xua đuổi Hoa kiều, rút chuyên gia, gây tình hình hết sức căng thẳng.
Từ cuối năm 1978, Trung Quốc tăng cường làm đường cơ động, xây dựng căn cứ, hệ thống kho trạm, vận chuyển tập kết vật chất, sơ tán nhân dân về phía sau. Đồng thời, thực hiện các hoạt động nghi binh, đề ra kế hoạch “dạy cho Việt Nam một bài học” và chuẩn bị chiến tranh “trừng phạt Việt Nam”. Họ tuyên bố lừa mị dư luận trong nước và quốc tế rằng chỉ sử dụng lực lượng “bộ đội biên phòng” để thực hiện “phản kích tự vệ”, bởi Việt Nam gây ra xung đột, “lấn chiếm đất đai”, “quấy rối biên cương” phía Nam. Thực tế, trên vùng biên giới Việt – Trung không có bất kỳ lực lượng vũ trang nào của Việt Nam được triển khai gây sức ép buộc Trung Quốc phải “tự vệ”, chỉ có phía Trung Quốc chuẩn bị lực lượng quy mô lớn đánh Việt Nam.
Từ tháng 8/1978, phía Trung Quốc điều động lực lượng từ phía sau ra biên giới gồm 9 quân đoàn và 5 sư đoàn độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn bộ binh), cùng 550 xe tăng, xe bọc thép, 2558 pháo (trong đó có 1092 pháo xe kéo), 676 máy bay...
Trên hướng biển có hàng chục tầu chiến thuộc Hạm đội Nam Hải hỗ trợ. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn bố trí nhiều trận địa pháo, trạm ra đa, trang bị vũ khí cho dân binh các công xã ở vùng biên giới, tổ chức nhiều cuộc diễn tập, gây căng thẳng trên vùng biên giới Việt – Trung. Đêm 16, rạng ngày 17/2/1979 (đêm thứ Bảy, rạng ngày Chủ Nhật), lợi dụng trời tối, sương mù, phía Trung Quốc bí mật đưa lực lượng lớn vượt biên, luồn sâu, ém sẵn ở nhiều khu vực trên toàn tuyến biên giới, từ Pò Hèn (Quảng Ninh) đến Pa Nậm Cúm (Lai Châu); đồng thờ, triển khai đội hình lớn áp sát biên giới chuẩn bị tiến công.
Mở cuộc chiến tranh trên biên giới phía Bắc nước ta, đối phương hi vọng thực hiện được 5 mục tiêu:
Một là, cứu bọn Pôn Pốt, giữ Campuchia trong quỹ đạo của họ (mục tiêu chủ yếu). Ý đồ là chiếm một số khu vực đất đai của ta ở gần biên giới, nếu ta sơ hở sẽ tiến vào sâu, buộc ta đàm phán, đòi quân ta rút khỏi Campuchia để đánh đổi việc họ rút quân. Mức thấp là đánh để buộc ta vì lo bảo vệ miền Bắc phải rút quân khỏi Campuchia, tạo điều kiện cho quân Pốn Pốt bảo toàn lực lượng, giữ được các căn cứ, đẩy mạnh hoạt động, hòng khôi phục lại chính quyền Campuchia Dân chủ.
Hai là, tranh thủ Mỹ và các nước đế quốc giúp họ xây dựng “bốn hiện đại hóa” (nông nghiệp, công nghiệp, quân đội và khoa học – kỹ thuật).
Ba là, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế của ta, làm ta suy yếu. ý đồ của họ là tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của ta, nhất là khối bộ đội chủ lực, phá hoại các cơ sở kinh tế, tàn sát gây tâm lý khủng khiếp trong nhân dân ta, kích động bạo loạn, hạ uy thế quân sự, chính trị to lớn của ta sau chiến thắng 30/4/1975.
Bốn là, uy hiếp Lào từ phía Bắc, làm suy yếu liên minh chiến đấu Việt – Lào, buộc Lào “trung lập” trong cuộc đấu tranh giữa ta và họ; phá hoại Lào toàn diện, buộc Lào theo họ chống lại ta, uy hiếp ta từ phía Tây. Đồng thời thị uy các nước Đông Nam Á, gỡ thể diện cho họ sau thất bại nặng nề ở Campuchia.
Năm là, thăm dò phản ứng của Liên Xô và dư luận thế giới để chuẩn bị cho những bước phiêu lưu sau này.
Trước diễn biến căng thẳng trên vùng biên giới phía bắc, Đảng và Nhà nước ta kiên trì chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình; đồng thời khẩn trương tăng cường lực lượng, đẩy mạnh xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước, nhất là ở Quân khu 1 và Quân khu 2. Đây là một địa bàn chiến lược rất quan trọng, án ngữ toàn bộ vùng biên giới phía bắc, Tây Bắc và Đông Bắc của Tổ quốc, có chung đường biên giới với Trung Quốc dài hơn 1400km, chạy qua 145 xã, 19 thị trấn thuộc 27 huyện của 6 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang và Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai và Yên Bái), Lai Châu.
Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) Việt Nam làm nhiệm vụ ở các đồn và cửa khẩu vùng biên giới các tỉnh phía Bắc thường xuyên tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản cho Hoa kiều trở về nước. Trong cuộc đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép Hoa kiều về nước, một số cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã anh dũng hi sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Tháng 7/1978, Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa IV) của Đảng đã chỉ đạo tập trung lực lượng để giải quyết nhanh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên hướng biên giới Tây Nam; đồng thời động viên, tăng cường lực lượng và công tác phòng thủ đất nước ở biên giới phía Bắc.
Ngày 06/01/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc tăng cường chiến đấu ở các tỉnh phía Bắc, nêu rõ: “Phải theo dõi, nắm chắc tình hình địch, kịp thời phát hiện âm mưu và hành động tiến công phá hoại của chúng, quyết không để bị bất ngờ, không mắc mưu khiêu khích của chúng… Gấp rút đẩy mạnh công tác sẵn sàng chiến đấu ở các địa phương trên toàn biên giới, bảo đảm sẵn sàng đánh bại địch ngay từ đầu trong bất kỳ tình huống nào”.
Bất chấp nỗ lực giải quyết căng thẳng bằng con đường hòa bình của ta, dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền Trung Quốc, từ 3 giờ 30 phút ngày 17/02/1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của Việt Nam. Hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Tuyên.
Trước cuộc tấn công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/02/2019, Chính phủ ta đã ra tuyên bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước và khẳng định “Quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”.
Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta, nhất là ở các tỉnh Việt Bắc, Tây Bắc một lần nữa phát huy cao độ truyền thống cách mạng, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong quá trình chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, quân và dân ta tiếp tục nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các nước XHCN, các lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế thới.
Do không đạt được mục đích đề ra, bị quân và dân các tỉnh biên giới giáng trả mạnh mẽ, bị tổn thất nặng nề, đồng thời bị dư luận tiến bộ trên thế giới và trong nước lên án mạnh mẽ, ngày 05/3/1979, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân trên tất cả các hướng.
Với truyền thống nhân nghĩa, bao dung và mong muốn củng cố hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân hai nước, Trung ương Đảng và Chính phủ ta chỉ thị cho lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để Trung Quốc rút toàn bộ lực lượng và phương tiện chiến tranh về nước.
Từ ngày 06/3/1979, phía Trung Quốc vừa rút quân, vừa đánh phá, gây nhiều thiệt hại về người và của đối với đồng bào ta ở một số vùng giáp biên giới. Đến ngày 18/3/1979, về cơ bản, Trung Quốc đã rút quân khỏi nước ta.
Mặc dù tuyên bố rút quân, nhưng trên thực tế, từ sau ngày 18/3/1979, phía Trung Quốc vẫn chiếm đóng trái phép một số điểm cao thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, có nơi sâu từ 200 đến 500m, thường xuyên gây xung đột vũ trang, làm cho tình hình luôn căng thẳng, kéo dài đến năm 1989.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc (tính từ ngày 17/2 đến 18/3/1979), quân và dân ta đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62500 quân, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự…
Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã nhận lấy bài học quân sự đắt giá.
Thế hệ trẻ không thể và không được quên hòa bình hôm nay được dựng nên bởi máu xương của các thế hệ cha anh đi trước.
"Những chiến sĩ con dân đất Việt
Khi Tổ quốc cần tuổi xuân đâu tiếc
Lưng trần, cắp súng xung phong
Đạn xé nát vai đạn cày rách mặt
Súng trên tay rực rửa
Xung phong giữ đất biên thùy."
NGUỒN: BAN TUYÊN GIÁO TW - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM
Thứ Năm, 08:14 14/02/2019
Bản quyền thuộc về Đại học Công nghiệp Hà Nội